Trang chủ » Thiết kế website giá rẻ
10 công nghệ chủ đạo năm 2005
Những công nghệ mà tập đoàn phân tích Gartner vừa công bố sẽ đặt các giám đốc thông tin (CIO) và nhà quản lý công nghệ trước một loạt thách thức có thể tác động trực tiếp tới tính cạnh tranh của họ trên thương trường.
Nhắn tin tức thời (Instant Messaging)
Năm 2005, 60% thông tin dữ liệu trao đổi trong các doanh nghiệp sẽ diễn ra trong thời gian thực. Trở ngại đối với hình thức tin nhắn trực tuyến là các vấn đề về bảo mật, khó thẩm định, tích hợp và thiếu hỗ trợ cho các dữ liệu không ở dạng ký tự. Tuy nhiên, hiện một số nhà cung cấp lớn như AOL, IBM, Microsoft, Sun, Yahoo... đã để ý hơn tới bảo mật và khả năng tích hợp cho công cụ IM. Thậm chí, IBM còn đang thử nghiệm ứng dụng mang tên NotesBuddy, tích hợp các tính năng IM cùng với khả năng nhận và gửi e-mail. Các mẩu đối thoại IM được lưu trữ trong hòm như, hỗ trợ cả khả năng tìm kiếm.
Mạng cục bộ không dây (WLAN)
Năm 2005 hứa hẹn mang lại nhiều cột mốc trong lĩnh vực không dây. Sự thống nhất về chuẩn kết nối và những công nghệ bảo mật đi kèm (phổ biến nhất là chuẩn WPA-WiFi Proteced Access) khiến mô hình công sở không dây sẽ dần thay thế văn phòng truyền thống. Điểm mạnh nhất của mô hình mới là tính di động, ví dụ bạn có thể làm việc ở bất cứ nơi đâu mà chỉ cần mang theo mình một chiếc laptop tích hợp công nghệ kết nối không dây.
Phép phân loại (Taxonomies)
Trong suốt năm 2005, việc xây dựng và chuẩn hóa các phép phân loại nhằm tăng hiệu quả sản xuất sẽ tiếp tục giành được sự quan tâm của người sử dụng và các nhà phát triển. Taxomonies là phương thức phân loại theo cấp bậc thông tin. Nhu cầu ngày càng gia tăng đối với khả năng tìm kiếm nhanh, tăng sản lượng và phục vụ tốt hơn nữa khách hàng. Ví dụ, nội dung e-mail có thể được lọc thông qua nhiều bộ quy chuẩn được xác định từ trước. Khách hàng tìm kiếm thông tin về sản phẩm sẽ được tạo điều kiện thông qua cơ chế phân loại, gắn thuộc tính cho từng dạng thông tin.
Điện thoại Internet (IP Telephony)
Điện thoại Internet (công nghệ thoại qua giao thức Internet - VoIP) đang dần tiến hóa và ngày càng phổ biến. Năm 2006, hầu hết các doanh nghiệp sẽ triển khai đầy đủ hạ tầng IP Telephony để tận dụng được những giá trị kinh doanh từ các ứng dụng bao gồm cả hội thảo qua giao thức IP, các trung tâm xử lý cuộc gọi và hệ thống tích hợp. Tiết kiệm chi phí là một trong những lợi thế nổi trội của hệ thống thoại Internet. Chính vì vậy, hầu hết doanh nghiệp đang đợi chờ để thay thế hệ thống thoại sử dụng hỗn hợp công nghệ số và tín hiệu tương tự (analog). Ngoài ra, các tính năng tích hợp như hội thảo hình, khả năng tăng sản lượng... cũng được nhắc tới như những lý do chính yếu để chuyển sang sử dụng IP Telephony.
Phần mềm theo hướng dịch vụ
Các hình thức phát triển hướng vào dịch vụ sẽ thay đổi cách thức xây dựng, đóng gói và tiêu thụ phần mềm thương mại. Các dịch vụ web có thể được ứng dụng nhiều và được tinh chỉnh để phù hợp với từng công đoạn kinh doanh, mở rộng và tận dụng những đặc tính mà bạn đã phải đầu tư xây dựng. Trong năm 2005, doanh nghiệp chia sẻ thông tin sẽ chuộng giao diện dịch vụ. Tuy nhiên, sự phát triển của các dịch vụ web sẽ lệ thuộc rất nhiều vào quá trình tiến hóa của chuẩn UDDI (mô tả, phát hiện và tích hợp toàn cầu - Universal Description, Discovery and Integration) cũng như các nguồn quy chuẩn khác.
Cấu trúc doanh nghiệp thời gian thực
Môi trường điện toán hiện nay được xây dựng nhưng chưa hiệu quả xét từ góc độ đầu tư công nghệ thông tin. Các dịch vụ ứng dụng được xây dựng trên hạ tầng của chính chúng - các "hòn đảo" được tích hợp nhiều chức năng nhưng không sẵn sàng cho việc chia sẻ trong một môi trường mang tính phân phối. Ngoài ra máy chủ, thiết bị lưu trữ và việc tận dụng mạng lưới chưa được tối ưu hóa. Thiếu một cấu trúc ứng dụng hoặc công nghệ thích hợp, việc tinh chỉnh phân phối hoặc chia sẻ tài nguyên hoặc đáp ứng nhu cầu của các cấp dịch vụ thường rất khó khăn. Rõ ràng, xu thế mà các doanh nghiệp đang tiến tới là một kết cấu thời gian thực, linh hoạt, tích hợp tổng thể các nguồn lực, đóng vai trò nguồn cung cấp cho mọi yêu cầu phát sinh trong quá trình hoạt động.
Điện toán hữu dụng
Liên quan tới kết cấu thời gian thực và khả năng chia sẻ nguồn lực công nghệ thông tin là điện toán hữu dụng (utility computing). Thực chất, đây là mô hình cho việc cung cấp các dịch vụ công nghệ thông tin có khả năng chuyển đổi rủi ro từ phía người sử dụng về phía người cung cấp. Mô hình này sẽ linh hoạt hơn rất nhiều và dễ dàng hơn cho việc dự báo, kiểm soát. Thay vì chọn lựa, sử dụng và vận hành các thiết bị công nghệ thông tin, khách hàng chỉ việc mua lại kết quả của một hệ thống từ nhà cung cấp điện toán hữu dụng.
Rất điển hình, phương thức tính phí sẽ dựa trên mức độ sử dụng, theo kiểu dùng bao nhiêu trả bấy nhiêu. Thông qua hình thức này, các doanh nghiệp có thể chủ động kiểm soát và đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng mà không phải tốn quá nhiều kinh phí đầu tư. Theo dự báo, 30% các doanh nghiệp sẽ lựa chọn mô hình điện toán hữu dụng vào năm 2007, tăng 15% so với thống kê hiện tại.
Điện toán mạng lưới
Điện toán mạng lưới vượt qua vài bước so với cấu trúc thời gian thực và điện toán hữu dụng. Đây là một khái niệm mà các nhà cung cấp lớn hoặc các công ty mới thành lập lựa chọn như là một mô hình cần hướng tới trong tương lai. Điện toán mạng lưới có nghĩa là tất cả hoặc một phần của một nhóm máy tính, máy chủ và thiết bị lưu trữ trong mạng doanh nghiệp được ảo hóa thành một cỗ máy tính lớn. Vì điện toán mạng lưới giải phóng những khả năng tính toán không được sử dụng vào một thời điểm bất kỳ, chúng có thể cho phép các doanh nghiệp tăng cường rất nhiều về tốc độ, sức mạnh xử lý thông tin và sự liên kết, thúc đẩy các quy trình tính toán mật độ cao.
Theo dự báo, tới năm 2006, điện toán mạng lưới được sử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp chủ yếu cho các tác vụ lặp lại và đòi hỏi khả năng xử lý cao. Tuy nhiên, các dịch vụ điện toán hữu dụng sẽ không lựa chọn công nghệ này cho tới năm 2008. Hiện tại, các chuẩn điện toán mạng lưới vẫn còn chưa thống nhất và cần có thêm thời gian để kiện toàn.
Hội tụ an ninh mạng
Trước năm 2006, 60% tường lửa, tính năng phát hiện và ngăn ngừa xâm phạm sẽ được triển khai thông qua các nền tảng bảo mật toàn mạng. Trong khi đó, các công ty bảo mật lớn sẽ cho ra đời những bộ công cụ tích hợp với cơ chế quản trị thống nhất.
Nỗ lực lọc nội dung, rà quét thư rác sẽ được tiến hành độc lập với hệ thống bảo mật tích hợp. Hai loại hình sản phẩm mới sẽ định hình và khẳng định vị trí: các thiết bị đời cao cho dịch vụ bảo mật được kiểm soát và các dòng thiết bị cấp thấp dành cho những môi trường quy mô nhỏ hơn.
Thẻ RFID
Trước năm 2010, thẻ nhận dạng qua tần số âm cũng như các kiểu chip không dây có tính năng tương tự sẽ tiến hóa từ công nghệ quản trị dây truyền cung ứng trở thành yếu tố không thể thiếu cho các ứng dụng giá trị gia tăng như định vị vật thể, thông báo hiện trạng vận chuyển... Điểm mấu chốt thúc đẩy sự phổ biến của công nghệ này là chi phí triển khai ngày càng được cắt giảm. RFID có thể được sử dụng để theo dõi tuổi đời sản phẩm, lưu trữ các thông tin khác về sản phẩm để vận dụng tốt hơn cho các nghiên cứu thị trường. Các bộ cảm biến cũng có thể được tích hợp theo các thiết bị vận chuyển, kiểm soát nhiệt độ, độ rung.